Theo Điều 29 Bộ Luật Lao động 2012 quy định trong thời gian thử việc, người lao động có quyền hủy bỏ hợp đồng thử việc hoặc hợp đồng lao động đã giao kết mà không cần báo trước và không phải bồi thường.
Riêng các trường hợp còn lại, người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn phải báo trước cho người sử dụng lao động (theo Điều 37 Bộ Luật Lao động năm 2012).
Từ 1-1-2021, theo Điều 35 Bộ Luật Lao động năm 2019, thời gian báo trước khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động được quy định như sau: Ít nhất 45 ngày: Nếu làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn; ít nhất 30 ngày: Nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 - 36 tháng; ít nhất 3 ngày: Nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng; Theo quy định của Chính phủ: Đối với một số ngành, nghề, công việc đặc thù.
Do đó, từ năm 2021, người lao động không căn cứ vào các trường hợp cụ thể mà căn cứ vào loại hợp đồng lao động đã ký kết với người sử dụng lao động để xác định thời hạn thông báo trước khi nghỉ việc.
Có thể thấy, quy định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho cả người sử dụng lao động và người lao động trong việc giải quyết quyền, lợi ích của người lao động khi nghỉ việc.
Hiện theo quy định tại Điều 43 Bộ Luật Lao động 2012, người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật thì không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động. Đặc biệt, nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.
Nếu trong quá trình làm việc, người lao động ký hợp đồng đào tạo nghề thì còn phải hoàn trả chi phí đào tạo cho người sử dụng lao động.
Tuy nhiên, từ 2021, nếu thuộc một trong các trường hợp nêu tại khoản 2, Điều 35 Bộ Luật Lao động năm 2019 cũng quy định, người lao động không phải báo trước khi nghỉ việc: Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc theo thỏa thuận; Không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn; Bị người sử dụng lao động ngược đãi, đánh đập hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ, hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; bị cưỡng bức lao động; Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc khi có xác nhận của cơ sở khám chữa bệnh về việc tiếp tục làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới thai nhi; Đủ tuổi nghỉ hưu; Người sử dụng lao động cung cấp thông tin không trung thực về công việc, địa điểm, điều kiện, thời giờ, thời giờ nghỉ ngơi, an toàn, vệ sinh lao động, tiền lương, hình thức trả lương, BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp… làm ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng lao động; Bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc.
Đồng nghĩa với đó, 7 trường hợp trên đây là trường hợp người lao động nghỉ việc đúng luật mà không phải báo trước về việc nghỉ việc cho người sử dụng lao động biết. Do đó, người lao động sẽ không phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường khi nghỉ việc trái pháp luật.
Theo : baodansinh.vn