Da thuộc là một dạng vật liệu bền và dẻo được chế biến thông qua quá trình thuộc da của da động vật, như da bò, trâu, dê, cừu non, nai, cá sấu, đà điểu, v.v..., nhưng thông dụng nhất là da bò. Da thuộc có thể được sản xuất bằng nhiều phương pháp khác nhau, ở quy mô lớn hay nhỏ, từ thô sơ cho tới cầu kỳ.
Để tạo ra da thuộc phải qua giai đoạn sơ chế chuẩn bị cho tấm da sạch, mềm, và dễ thẩm thấu các chất hóa học hay tự nhiên sẽ được sử dụng để biến tấm da sống thành da thuộc để dùng trong thời trang, may mặc, và các ngành công nghiệp khác. Trước tiên, da được lóc cẩn thận khỏi các thớ thịt và mỡ, rồi được phân loại cẩn thận theo chủng loại da và chất lượng. Sau đó da được ngâm để giũ sạch các chất bẩn. Tiếp theo, 1 loại vôi nước được sử dụng để tẩy lông đồng thời loại bỏ 1 số chất đạm, sợi trong da và thay đổi ít nhiều cấu trúc của da để da sẽ thẩm thấu tốt hơn những hóa chất sẽ được sử dụng trong công đoạn kế tiếp. Tùy theo nơi sản xuất, các chất hóa học hay các chiết xuất từ thiên nhiên sẽ được sử dụng để làm da mềm hơn, dai bền hơn, chống thấm nước tốt hơn, và giữ không bị thối rữa theo thời gian. Tiếp theo, da được phơi ráo nước, bôi dầu, phơi khô, nhào cho mềm và đều dầu, cán phẳng, và nhuộm màu theo nhu cầu. [1] ( Nguồn: Wikipedia)
CÔNG NGHỆ THUỘC DA
* Nguyên liệu sản xuất.
Da nguyên liệu dùng trong công nghiệp sản xuất thuộc da là các loại da động vật như: trâu, bò, lợn, cừu, dê, ngựa. ngoài ra còn sử dụng các loại da động vật quy hiếm như: hươu, nai, hổ, cá sấu, trăn, rắn, … nhưng số lượng không lớn.
* Cấu tạo da sống.
Trong công nghiệp thuộc da, việc chia diện tích trên một tấm da được quy định theo các vùng như sau:
1. |
Phần mông lưng |
2. |
Phần đầu vai |
3. |
Phần bụng |
Phần mông lưng: là phần trung tâm của da, chiếm 50-60% diện tích con da. Phần này các chùm sợi ở lớp mạng lưới sắp xếp chặt chẽ, có độ bền cơ học cao, đây là phần chất lượng nhất trong toàn bộ tấm da.
Phần đầu vai: độ bền cơ lí thấp do các chùm sợi phát triển yếu, cấu tạo lỏng lẻo.
Phần bụng: là phần biên của con da, các chùm sợi colagen mảnh mai sắp xếp lỏng lẻo và gần như song song với bề mặt vì vậy tính chất xơ lí kém thua phần mông lưng và phần đầu vai.
Thành phần hoá học chính của da sống là: nước, protit, mỡ, chất khoáng, một lượng nhỏ men và sắc tố. Hàm lượng các chất trong thành phần do thường không cố định mà biến đổi theo giống, tuổi, loài, điều kiện sinh trưởng của con vật và từng vị trí trên diện tích da.
- Nước trong da tươi chiếm khoảng 60-70% và tồn tại dưới hai dạng là: mước tự do nằm xen kẽ trong các sợi da ( chiếm 60% lượng nước trong da); nước kết hợp nằm trong cấu trúc của da khó thay đổi được.
- Protit: là thành phần cơ bản của da. Trong da sống đã sấy khô, ptotit chiếm khoảng 95% trọng lượng da. Protit tồn tại dưới hai dạng: Protit không có cấu trúc dạng sợi như anbunia, globulin, muxin và mucoit; Protit có cấu trúc dạng sợi như collagen.
Trong quá trình thuộc da, nhiều protit không có cấu trúc dạng sợi và Karetin được loại bỏ hoàn toàn.
* Bảo quản nguyên liệu.
Thông thường các loại da tươi này trước khi đưa vào thuộc phải được bảo quản cẩn thận vì các lò mổ, các điểm giết mổ không thể cung cấp một cách đều đặn, thường xuyên lượng da lớn cho các nhà máy thuộc da, mặt khác thường quy định trong một lô da xuất thuộc phải có đồng đều về chủng loại, trọng lượng, chất lượng và phương pháp bảo quản sau khi giết mổ.
Mục đích của bảo quản là loại bỏ sự phá hoại của các vi khuẩn hoặc hạn chếchúng. Có thể thực hiện bằng cách giảm lượng nước trong da, hoặc hạ thấp độ pH đến giá trị pH của axit mạnh và cũng có thể thực hiện qua việc hạ nhiệt độ xuống dưới 0 0
* Các phương pháp bảo quản da tươi:
+ Bảo quản băng muối: da tươi được ngâm vào muối hoặc dung dịch muối bão hoà. Sự hấp thụ muối đạt cực đại sau 12 giờ đối với dung dịch muối bão hoà và 24 giờ đối với muối hạt, sau đó là quá trình loại nước ra khỏi da. Trong quá trình này da mất nước và hấp thụ muối, lượng nước mất lớn hơn lượng muối hấp thụ ( với NaCl).
Khi bảo quản bằng muối hạt, trọng lượng giảm: 13-19%.
Khi bảo quản bằng dung dịch muối bão hoà trọng lượng giảm: 9-12%.
Da bảo quản bằng phương pháp dung dịch muối bão hoà ít khuyết tật hơn và định mức da thành phẩm tăng từ 1-2% so với phương pháp muối hạt.
Muối dung ở đây là natri clorua NaCl, nó có khả năng giữ lại khí cacbonic và không cho phép hoà tan trong môi trường dư oxy.
Na+ ngăn sự phát triển của vi khuẩn, còn Ca+ và Mg+ thì ngược lại vì vậy NaCl phải sạch hoặc chứa ít CaSO4 , MgSO4 , FeSO4 và Al2O3 . Ngoài ra có thể thêm chất ngăn cản sự hoạt động của vi khuẩn như axit boric, naftalina, cacbonat natri, bêta maftol, fluosilicat natri.
Da sau khi mổ cần phải được rửa sạch phần máu trên da, phần bản sau đó vắt lên cho ráo nước và muối( muối ở nơi tránh ánh sáng mằt trời trực tiếp hoặc ẩm ướt, phải thoáng mát).
Da được muối trên sàn gỗ hoặc sàn ximăng có độ nghêng 3-50, trải phẳng con da, mặt lông xuống dưới, mặt thịt len trên, sau đó sát muối thật đều và trải con khoác lên trên, độ cao khoảng 5-6 m/mẻ.
Sau 5-7 ngày muối, lượng muối cần dùng là 10-14% so với trọng lượng da tươi.
+ Phương pháp phơi khô: phơi khô phải rừ từ, không bức khô ( phương phấp này chỉ dùng cho thú nhỏ, và thú săn bắn).
Thuận lợi: không dùng hoá chất, thời gian bảo quản lâu, và chất lượng đảm bảo.
Nhược điểm: quá trình hồi tươi khó đạt như công nghệ yêu cầu, da lỏng mặt và dòn cục bộ.
+ Bảo quản băng phương pháp phơi khô và ướp muối: ướp 1/2 lượng muối sau đó phơi khô đến lượng nước từ 18-20%. Phương pháp này ít dùng.
+ Bảo quản băng phương pháp phòng lạnh: chỉ áp dụng cho những nước vùng bắc bán cầu khi mà không còn phương pháp nào để bảo quản. Phương pháp này cho chất lượng da thấp, độ bền kéo đứt thấp, gẫy mặt do nhiệt độ và tốc độ làm lạnh quá lớn.
+ Bảo quản bằng axit: đây là phương pháp bảo quản da trần ( da tẩy lông), sử dụng 100% dung dịch nước, 15-20% NaCl và 1,5-2% HCl hoặc H2SO4 so với trọng lượng da tươi.
* Quy trình sản xuất thuộc da.
Chia thành 3 phần chính:
1. |
Chuẩn bị thuộc. |
2. |
Thuộc. |
3. |
Hoàn tất. |
Sơ đồ công nghệ thuộc da:
* Chuẩn bị thuộc.
Công đoạn này có nhiệm vụ loại bỏ những phần không cần thiết như biểt bì, mô liên kết dưới da …, tạo cho sự liên kết của chất thuộc với sợi collagen trong giai đoạn thuộc.
Tất cả nguyên liệu trước khi và thuộc phải lựa chọn theo loại, trọng lượng, phương pháp bảo quản để có chế độ xử lí thích hợp.
Các khâu công nghệ trong quá trình chuẩn bị thuộc có thể khác nhau, tuỳ theo loại nguyên liệu, phương pháp bảo quản và mục đích sử dụng da thành phẩm.
Những công đoạn như: hồi tươi, tẩy lông, ngâm vôi, tẩy vôi, làm mềm axit hoá được áp dụng cho tất cả phương pháp thuộc. Riêng thuộc da để có da sử dụng trong công nghiệp, công đoạn làm mềm, axit hoá không thực hiện hoặc thực hiện ở mức độ thấp
a. Hồi tươi.
Mục đích: nhằm phục hồi lại lưộng nước có ở trong da bị mất đi do quá trình bảo quản ( từ 60-70% xuóon 35-45% đối với da bảo quản bằng muối và giảm đến 18% đối với da bảo quản phơi khô), đồng thời làm cho cấu trúc sợi trở lại như trạng thái ban đầu.
Với da bảo quản bằng phương pháp phơi khô thì hồi tươi khó khăn hơn phương pháp uớp muối do vậy cần chú ý ngay từ công đoạn này. Da hồi tươi chủ yếu kiểm tra bằng cảm quan, đạt yêu cầu khi mông có độ mềm mại như do kkhi còn tươi. Nếu kéo dài thời gian hồi tươi sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn hoạt động, da dễ bị tuột lông, mùi hôi khó chịu và có khả năng làm cho một phần collagen trong da bị phân huỷ.
Ở công đoạn này phải kiểm tra thời gian và nhiệt độ. Các nước châu Âu thường sử dụng mước ở công đoạn này với nhiệt độ là 26-270C và hoá chất cần thiết để ngăn chăn sự phát triển của vi khuẩn.
Ở nước ta, do có sự phân biệt rõ ràng mùa đông và mùa hè nên công đoạn hồi tươi khó khăn hơn vì vậy để đảm bảo chất lượng trong hồi tươi phải để nhiệt độ của nước từ 26-270C. Da bảo quản phổ biến là ướp muối do vậy cần hồi tươi như sau:
1. Cân da nguyên liệu ( tính trọng lượng da muối).
2. Dùng 150-200% nước cho vào foulons.
3. Nhiệt độ nước là 26-270C.
Cho da nguyên liệu vào foulons quay 20 phút, thoát nước bẩn ra ngoài, chắt kĩ và tiếp tục hồi tươi bằng cách bổ sung 150-200% nước vào foulons, tốc độ quay 4 vòng/phút, quay 30 phút sau đó quay đảo 10 phút/giờ.
Yêu cầu da phải ngập nước, thời gian từ 5-12 giờ, phụ thuộc và hoá chất sử dụng trong quá trình hồi tươi, hoá chất ở đây không có tính thuộc vì nước ảnh hưởng đến công đoạn tẩy lông làm da cứng.
b. Tẩy lông, ngâm vôi.
Mục đích: tẩy sạch lớp lông, thượng bì và loại bỏ lớp mỡ dưới da. Đây là công đoạn phức tạp, hoá chất tẩy lông ngâm vôi có tác dụng phá huỷ lớp chân lông và lớp biểu bì trên mặt da đồng thời làm trương nở da, nên când phải có sự kiểm tra chặt chẽ việc sử dụng hoá chất, nước, nhiệt độ, thời gian. Trong quá trình tẩy lông ngâm vôi, sự tác động của kiềm làm sạch lông và chân lông là sunfuanatri đóng vai trò quan trọng, pH tẩy chân lông là 12-13. Trong các loại kiềm, sử dụng vôi là tốt nhất, vôi có độ hoà tan giới hạn là 0,15%, pH=12,6. Nếu sử dụng NaOH thì sẽ phá huỷ sợi collagen trong da vì pH của nó quá cao. Nếu ngâm vôi quá mức, sợi collagen sữ bị phá huỷ, da bị hư hỏng. Ngược lại ngâm vôi chưa đạt, da thành phẩm sữ bị cứng do không trương nở hết.
Ngày nay với công nghệ hiện đại, ngâm vôi được tiến hành trong foulons với vận tốc là 3-4 vòng/phút, thờigian là 12-18 giờ. Trong quá trình ngâm tác động cơ học nhiều sẽ làm cho sản phẩm có độ xốp lớn, so vậy chỉ cần quay đảo 10 phút/giờ nhằm mục đích đảo đều dung dịch để thấm sâu và da.
Nước sử dụng rửa da là nước cứng, trên bề mặt da thạo thành lớp CaCO3 và da thành phẩm có chất lượng kém. Để tránh hiện tượng này, khi rửa cần thêm 0,5% lượng vôi so với lượng da.
Quy trình tẩy lông ngâm vôi: Thực hiện trong foulons, trọng lượng nước và hoá chất tính theo lượng da muối nước 200% cho tiếp xúc với hỗn hợp 1,5-2%Na2S và vôi tôi từ 10-15%, quay 60 phút. Sau đó, mỗi giờ quay đảo 5 phút, để qua đêm, thời gian của công đoạn là 12-24 giờ.
Chú ý: lượng vôi cho và foulons chia làm 2 lần, mục đích là tăng pH từ từ, có như vậy mặt da không bị nhăn húm, Với các mặt hàng khác như da bọc nệm, da găng, quần áo … cần ngâm vôi sao cho sấu trúc sợi da trương nở hơn và loại bỏ hoàn toàn cac abunin và các colagen không có cấu trúc sợi, có như vậy sản phẩm mới có độ xốp nhẹ.
c. Xẻ mỏng.
Tạo cho con da có độ dày đồng đều trong tất cả các tấm da theo yêu cầu sử dụng. Xẻ mỏng được thực hiện trên máy xẻ. Trong khi xẻ phải kiểm tra độ dày của da cắt sao cho phù hợp với từng mục đích sử dụng. Chẳng hạn: da sau khi ngâm vôi có độ dày mặt cật là 4 mm, sau khi thuộc còn 2,8 mm, sau khi bào là 2,6 mm và đến da hoàn thành có độ dày 2,3 mm.
d. Tẩy vôi, làm mềm.
Da sau khi tẩy lông ngâm vôi, các hoá chất kiềm trong do cần được loại bỏ, nếu không chúng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng da thuộc ( thuộc Crôm và kể cả thuộc tanin thảo mộc).
Tẩy vôi và làm mềm thường được tiến hành trong foulons, quá trình làm mềm được tiếm hành sau khi đã tẩy vôi. Ngày nay thường dùng foulons có tốc độ cao hơn tốc độ thùg quay để hồi tươi và tẩy lông, cụ thể là 5-6 vòng/phút, nhằm nâng cao khả năng tẩy của các tác nhân tẩy. Tuỳ theo mặt hàng, việc tẩy vôi có thể dùng các tác nhân khác nhau. Đối với da có độ mềm cao, cần loại bỏ hết các ion Ca2+ có trong do sau quá trình tẩy lông ngâm vôi. Nhằm làm giảm lượng tiêu hao chất tẩy vôi và hiệu quả tẩy đạt cao, trướckhi tẩy, cần rửa để loại bỏ bớt chất kềm không liên kết trong da. Nhiệt độ tẩy vôi làn mềm từ 35-380C, tối ưu là 370C vì ở nhiệt độ này giữ được an toàn cho sợi da.
Ngày nay việc dùng cửa khép kín để rửa trở thành phổ thông và có hiệu quả tẩy rửa cao, cụ thể là 90% lượng kiềm không liên kết bị loại bỏ sau 3 lần rửa riêng biệt.
Hoá chất dùng để tẩy vôi là các muối axit như amoni sunfat (NH4)2SO4, amoni clorua NH4Cl hay muối của axit hữu cơ yếu. Khi dùng (NH4)2SO4 thì tạo thành CaSO4 khó hoà tan hơn CaCl2 khi dùng NH4Cl để tẩy. Nhận biết quá trình tẩy hoàn toàn hay không người ta dùng chỉ thị màu để kiểm tra mứcđộ tẩy vôi. Nếu nhỏ vài giọt phenolphtalein vào mặt da mà không có màu gì là quá trình tẩy vôi được thực hiện một cách triệt để (pH=8,3), nếu có màu hông hay đỏ thì quá trình tẩy vôi chưa hoàn toàn triệt để.
Quá trình xuyên thấu của tác nhân khử vôi vào các phần dày của tấm da sẽ chậm và khó khăn hơn. Đối với da thuộc có độ mềm mại, tác nhân tẩy vôi cần phải xuyên vào trong da sâu hơn. Nếu da thuộc đanh chắc thì quá trình tẩy vôi không cần thực hiện một cách triệt để.
Mục đích làm mềm là tạo cho da có mặt cật nhẵn, loại toàn bộ sự trương nở và lớp ghét trên mặt cật. Trong quá trình làm mềm, tác nhân làm mềm sẽ tác dụng đến các collagen không có cấu truc như sợi đàn hồi. Nhằm tăng sự mềm mại, độ đàn hồi của mặ cật, việc này có y nghĩa lớn đố với da thuộc Crôm – mặt hàng làm áo khoác, mũ giày, găng tay, bọc đệm; nhưng không có y nghĩa đối với các loại da cứng như da đế giày, da dùng cho công nghiệp. Trong thực tế, quá trình làm mềm được thực hiện trong cùng foulons dùng để tẩy vôi và cùng trong một bể của công đoạn tẩy vôi. Quá trình làm mềm là quá trình tác động của men lên một số cấu trúc của da - đó là phát minh của tiến sĩ Rohn người Đức - loại men này là men phân giải ( men Pancreaza) chúng được chuyển hoá theo hoạt động của men và được trộn và mùn cưa hoặc trộn với các tác nhân tẩy vôi khác.
Yếu tố nhiệt độ rất quan trọng đối với quá trình làm mềm, tối ưu là 370C, vì nhiệt độ này thích hợp cho hoạt động của men; pH cũng có vai trò quan trọng, pH tối ưu là 8,3.
Việc làm mềm cũng đồng thời tăng sự đàn hồi của da thành phẩm. Mếu quá trình làm mềm da qua lâu, quá mạnh sữ làn giảm độ bền lực chịu kéo. Tuỳ theo mục đích sử dụng các loại da mà chế độ làm mềm khác nhau. Phương pháp kiểm tra quá trình làm mềm băng cách gấp da lại và vắt để cho bọt khí đi qua.
*. Thuộc da.
Thuộc da là quá trình mà qua đó da trần được chuyển hoá thành da thuộc với những đặc tính tối ưu của nó như chịu nhiệt độ cao, không thối rữa khi tiếp xúc với nước và các môi trường khác, chịu được tác động phá hoại của vi sinh vật và có độ thấu khí cao.
Hoá chất dùng để thuộc là kali bicrômat: K2Cr2O7. Khi thuỷ phân tạo thành muối kiềm crôm:
K2Cr2O7 + 3H2SO4 + R —› K2SO4 + 2CrOHSO4 + RO + H2O
R là chất khử ( gluco hoặc Na2S2O4). Phản ứng tạo nên hợp chất hợp chất hyđrôxyt là muối kiềm Crôm, dung dịch mang tính axit. Quá trình thuỷ phân có thể tiếp tục nếu ta cho axit vào dung dịch khi dùng quá trình thuỷ phân và có thể đưa sản phẩm của quá trình thuỷ phân trở về dnạg sunfat crôm.
Các phân tử phức crôm có thể tại nên các phần tử phức lớn hơn, làm cho độ kiềm và tính thuộc biến đổi.
Một số tính chất của muối kiềm crôm:
tt |
Muối crôm |
% độ hoà tan |
Tính thuộc |
Độ hoà tan |
1 |
Cr2(SO4)3 |
0 |
Kém |
Rất tốt |
2 |
Cr(OH)SO4 |
33 |
Tốt |
nt |
45 |
Mạnh |
nt |
||
3 |
Cr2(OH)4SO4 |
46 |
Bề mặt |
Không tan |
4 |
Cr(OH)3 |
100 |
Không |
nt |
Độ kiềm là mức đo tính thuộc của muối crôm; tăng độ kiềm, tính thuộc và lượng muối Crôm hấp thụ và da tăng, đồng thời cũng tăng nhóm hyđrôxyt liên kết trong phức và làm tăng kích thước phức Crôm trong dung dịch và làm giảm khả năng xuyên của muối crôm vào bên trong da, cho nên ở giai đoạn này dùng dung dịch Crôm có độ bền kiềm thấp tạo khả năng xuyên của chúng vào da sâu hơn.
Các anion khác có thể đi vào phức crôm (các gốc cacboxyl) làm thay đổi tính thuộc, thay đổi thành phần của dung dịch điều chế từ bicromat ít hơn, do nguy hiểm của một số hoá chất như axit cromic đối với sức khoẻ người sản xuất.
Việc dùng tác nhân khử là glucoza hoặc hợp chất hữu cơ khác, tạo nên crôm với nhiều phân tử hữu cơ, tuỳ theo thành phần của chất khử. Ví dụ:
Na2Cr2O7 + H2SO4 H2CrO4 + Na2SO4 + H2O + nhiệt…..
Cr2(SO4)3 + Na2SO4 + H2O + nhiệt
Ở pH thấp hơn, quá trình xuyên của chất thuộc Crôm vào trong da sẽ tốt hơn và nhanh hơn song tính thuộc Crôm kém hơn. Tăng pH, tăng khả năng thuộc và tạo sự liên kết của chúng với các collagen mà không gây dết tủa. Điều quan trọng trong công đoạn nâng kiềm là mức độ năng sao cho tác dụng thuộc đồng đều, phòng ngừa kết tủa Crôm có thể xẩy ra. Natri cacbonat có thể dùng để nâng kiềm, độ kiềm của dung dịch sẽ tăng ở dạng dịch cấp theo bậc thang.
Hiện nay, người ta dùng các tác nhân trung hoà khác nhau, tác dụng nâng kiềm của chúng tăng lên một cách từ từ như: Mentrigan MOG, khoáng đôlômit.
Để tiếp công đoạn sau, ta cần kiểm tra độ xuyên thấu của axit hoá (sau 2 giờ quay), sau khi đạt ta cho: 6-8% Cr2O3 dạng bột, quay 6-8 giờ, thử độ xuyên thấu sau 3-4 giờ, cho tiếp 0,5-1% Mentrigan MOG, quay 1-2 giờ. Thử nhiệt độ và pH.
Đối với da phèn cần dùng chất chống mốc để phòng mốc, thường dùng 0,3-0,5% Preventol WB.
* Hoàn thành da thuộc.
Da sau khi thuộc độ ẩm còn quá cao 60-65%, chưa có độ mềm dẻo cần thiết, bề mặt thô và dễ ngấm nước. Vì thế sau khi thuộc nhất thiết phải qua công đoạn chỉnh lý.
Với các loại da khác nhau, yêu cầu khác nhau trong quá trình chỉnh lý. Tuy nhiên, các loại da sau khi thuộc đều có những khâu cơ bản sau: ủ đống, ép nước, bào mỏng, trung hòa ( đối với da thuộc Crôm), nhuộm ăn dầu, sấy khô, để cho da có độ ẩm là 12-15%, sau đó đem vò mềm, trau chuốt, mục đích làm cho da thuộc đồng đều về mặt màu sắc, khắc phục những khuyết tật trên bề mặt nhằm đáp ứng mục đích sử dụng đa dạng của người tiêu dùng.
Trong công nghiệp thuộc da, quy trình thuộc đóng vai trò quyết định của sản phẩm thì trau chuốt có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với tiêu dùng vì rằng: chỉ tiêu thẩm mĩ của da thuộc crôm với các đồ dùng chế biến từ da được thể hiện chủ yếu ở màu sắc, độ bóng, độ bền nhiệt, bền uốn gập của lớp màng trau chuốt. đặc biệt là lớp màng trau chuốt có vai trò quyết định giá trị của tấm da thuộc khi lưu thông trên thị trường. Vì vậy khi trau chuốt đòi hỏi các nhà công nghệ phải tìm hiểu, nắm bắt thị hiếu của người tiêu dùng, từ đó phân loại, lựa chọn hóa chất, phương pháp trau chuốt cho phù hợp với công dụng từng mặt hàng mà người tiêu dùng đòi hỏi.
Da nguyên liệu có một số khuyết tật hình thành khi con vật còn sống hoặc hình thành qua lột mỏ, khi bảo quản. những khuyết tật mày ảnh hưởng đến chất lượng của da thuộc và da hoàn thành, do đó trước khi trau chuốt phải phân loại da thành 2 loại: loại để nguyên mặt cật ( mặt tự nhiên) và loại phảt cải tạo mặt cật.
Với loại để nguyên mặt cật, sau khi nhuộm ăn dầu được đưa vào trau chuốt. Thành phần trau chuốt bao gồm 2 lớp chính:
+ Lớp cơ sở: chất kết dính là thành phần chính để tạo màng, như chất acrylic butadien, polỷuetan, các chất pigment ( những oxit kim loại) mang màu…, dầu mỡ, dung môi hữu cơ tại màng có độ mềm mại và độ bóng nhất định. Ngoài ra còn có một số hợp chất làm dày khác.
+ Lớp phủ trên cùng: chủ yếu dùng Lacquers, nitroxenlulo, polymetan hòa tan dung môi hữu cơ. các hợp chất trên có thể bôi hoặc phun nhiều lớp, cuối cùng là in ở nhiệt độ cao và áp suất khác nhau, phụ thuộc vào yêu cầu của khách hàng mà công nghệ lựa chọn phương pháp thao tác khác nhau cho phù hợp.
Đối với da phải cải tạo trước khi trau chuốt, phải xử lý bằng phương pháp ngâm tấp và dùng giấy nháp đánh bề mặt, khi ngâm tấp có các hóa chất chủ yếu đó là Encryl và dung môi hữu cơ. Các loại da mặt cất xấu phải qua công đoạn cải tạo bằng phương pháp dùng giấy nháp đánh phớt bề mặt sau đó da được ngâm với dung dịch hóa chất nêu trên nhằm tạo cho da có mặt cật bằng, tiếp đó đem sấy khô và dùng giấy nháp đánh lại để hóa chất trau chuốt bề mặt da đạt được yêu cầu chất lượng tốt hơn.
* Thiết bị
Các thiết bị cần thiết cho qua trình thuộc da là: foulons, máy nạo thịt, máy xẻ, máy bào, máy ép nước, máy ty da, máy vò mềm, máy in, máy đánh nháp, máy đánh bóng, máy sấy chân không. trong đó quan trọng là:
+ Máy nạo thịt: là máy dùng để loại bỏ những tổ chức dưới da tạo điều kiện cho hóa chất xuyên vào sợi da tốt hơn.
+ Máy xẻ, máy bào: có tác dụng điều chỉnh chiều dày tấm da đảm bảo độ dày đồng đều nhất định, giảm sự tiêu hao của một số hóa chất trong khi thuộc và làm tăng khả năng sử dụng của sản phẩm.
+ Foulons: giúp làm tăng quá trình xuyên thấu và kết hợp của hóa chất vào da tạo sự phân bổ đồng đều trên và trong toàn bộ tấm da.
+ Máy vò mềm: tạo cho da có độ xốp và độ mềm mại đáp ứng những nhu cầu tiêu dùng khác nhau của khách hàng.
+ Máy in: dùng để trang trí bề mặt làm tăng tính thẩm mĩ của da thuộc sau khi hoàn thành.