Mặc dù chính sách thương mại chắc chắn là một chiến lược tìm nguồn cung ứng, mà dường như là thứ yếu đối với kinh nghiệm và thực tiễn đối với ngành công nghiệp hiện tại và sản xuất của nước nào là đáng tin cậy nhất để đáp ứng với nhu cầu của thương hiệu.
Trong bối cảnh khủng hoảng về quan hệ thương mại Mỹ - Trung Quốc, Matthew Shay, chủ tịch kiêm giám đốc điều hành của Liên đoàn Bán lẻ Quốc gia cho biết, “Toàn bộ quá trình này tạo ra sự không chắc chắn và gây khó khăn cho các công ty bán lẻ dựa vào chuỗi cung ứng toàn cầu phức tạp”.
Trước khi đến mức thuế mới nhất, các nhà nhập khẩu dường như dựa vào những thử thách và sự thật. Thị phần thị trường may mặc và dệt may của Trung Quốc nhập khẩu vào Mỹ tăng lên 36,63% trong tháng 2/2018 so với 36,44% tháng trước đó. Xuất khẩu của ngành công nghiệp Trung Quốc vào Mỹ tăng 4,18% trong tháng 2/2018 lên 39,27 tỉ USD trị giá hàng hóa.
Việt Nam, nhà cung cấp may mặc và dệt may lớn thứ 2 vào Mỹ cũng tăng thị phần thị trường lên 11,53% từ mức 11,5% tháng trước đó, mặc dù có một vài dự báo cho rằng, khi Mỹ rút khỏi TPP, xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ sẽ giảm. Nhập khẩu ngành công nghiệp Việt Nam vào Mỹ chủ yếu là may mặc tăng 9,01% trong tháng 2/2018 lên 12,36 tỉ USD.
Nhìn xa hơn về 10 nhà cung cấp hàng đầu, thị phần thị trường Ấn Độ giảm xuống 6,92% so với 6,96% tháng trước đó, do nhập khẩu tăng 3,12% lên 7,42 tỉ USD. Mỹ đang thách thức xuất khẩu của Ấn Độ bao gồm trợ cấp không cho phép theo quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới. Trong các tháng gần đây, Ấn Độ đã cắt giảm các khoản “hoàn thuế”, có thể phù hợp với các quy tắc của WTO, và các chuyên gia ước tính rằng có thể tăng chi phí FOB.
Nhập khẩu của Bangladesh vào Mỹ suy giảm, thị phần thị trường giảm xuống còn 4,93% so với 4,97% và kim ngạch xuất khẩu giảm 2,84% xuống còn 5,29 tỉ USD.
Cùng với các nhà cung cấp châu Á khác, thị phần thị trường Indonesia giảm xuống còn 4,44% so với 4,47% và kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ giảm 1,72% xuống còn 4,76 tỉ USD. Pakistan giảm 2,59% so với 2,61% tháng trước đó và kim ngạch xuất khẩu tăng 1,67% lên 2,78 tỉ USD, trong khi thị phần thị trường Campuchia tăng 2,15% so với 2,14% và kim ngạch xuất khẩu tăng 6,79% lên 2,3 tỉ USD.
Trong số 10 thị trường cung cấp hàng đầu từ Mỹ, thị phần thị trường Mexico giảm 4,4% so với 4,53% trong tháng 2/2018, do kim ngạch nhập khẩu tăng 7,93% lên 4,83 tỉ USD, trong khi thị phần thị trường Honduras giảm xuống còn 2,34% so với 2,36%, khi kim ngạch nhập khẩu giảm 2,21% xuống còn 2,5 tỉ USD và thị phần thị trường El Salvador giảm xuống còn 1,83% so với 1,84% trong tháng 2/2018.
Trong số các thị trường cung cấp thứ cấp bao gồm Thổ Nhĩ Kỳ cho thấy, xuất khẩu của nước này sang Mỹ tăng 16,53% lên 1,55 tỉ USD trị giá hàng hóa, kim ngạch xuất khẩu của Italia sang Mỹ tăng 8,78% lên 1,8 tỉ USD và Ai Cập tăng 7,27% lên 905,99 triệu USD.
Các thị trường cung cấp thứ cấp trong tháng là Hàn Quốc, với kim ngạch nhập khẩu giảm 3,15% xuống còn 866,1 triệu USD. Kim ngạch nhập khẩu của Thái Lan giảm 2,26% xuống còn 1 tỉ USD và Guatemala giảm 2% xuống còn 1,36 tỉ USD. Có mối quan ngại trong số hàng trăm triệu USD đe dọa thuế quan khắp Thái Bình Dương giữa Mỹ và Trung Quốc, khi tiếp diễn những nỗ lực được tái thiết lập của Mỹ sẽ bị tổn thương.
Rick Helfenbein, chủ tịch kiêm giám đốc điều hành Hiệp hội Dệt may Mỹ cho biết, “Chúng tôi lo ngại rằng, danh mục thuế quan bao gồm máy móc được sử dụng trong quá trình sản xuất trong nước. Điều này sẽ trực tiếp đẩy chi phí sản xuất nội địa và tác động đến khả năng của chúng tôi phát triển tại Mỹ”.
Với lời kêu gọi cân bằng thương mại hơn giữa Mỹ và thế giới dường như là tâm điểm của mối đe dọa về thuế, xuất khẩu dệt may Mỹ trong tháng 2/2018 tăng 3,47% lên 22,83 triệu USD. Phần lớn những mặt hàng xuất khẩu này sang các quốc gia tại châu Mỹ hoặc là một phần của Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) hoặc Hiệp định Thương mại Tự do Trung Mỹ (ACFTA).
Mexico là điểm đến xuất khẩu hàng đầu các mặt hàng này, tăng 3,2% lên 6,07 triệu USD trị giá hàng hóa và Canada tăng 3,89% lên 5,39 triệu USD. Mỹ, Canada và Mexico hiện đang đàm phán lại NAFTA.
Các quốc gia CAFTA là một trong số những thị trường cung cấp hàng đầu đều tăng xuất khẩu sang Mỹ. Honduras tăng 3,78% tương đương 1,5 triệu USD trị giá hàng hóa, Cộng hòa Dân chủ Dominica tăng 5,44% tương đương 561,213 USD trị giá máy móc, nguyên liệu, El Salvador tăng 25,42% lên 468.607 USD hàng hóa và Nicaragua tăng 19,67% tương đương 348.919 USD xuất khẩu hàng hóa.
Nguồn: Lefaso.org.vn