Da giầy được xem là một trong những thế mạnh của Việt Nam. Không chỉ là một trong những ngành kinh tế thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn trong những năm qua, các sản phẩm da giầy Việt Nam còn là một mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Mặc dù đã đạt được một số kết quả khả quan trên thị trường quốc tế, nhưng ngành da giầy Việt Nam trên thực tế vẫn còn nhiều lúng túng trong việc tạo lập một thế đứng vững chắc ngay tại sân nhà.
Cơ hội với các đối tác nước ngoài
Việt Nam đứng trong vị trí 10 nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về da giầy, đứng thứ hai về xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Theo các số liệu mới nhất, tình hình xuất khẩu của ngành da giầy nửa đầu năm 2014 khá ổn định. Xuất khẩu sản phẩm giầy dép sang các thị trường truyền thống như Mỹ, Nhật Bản, Bỉ, Đức… vẫn rất khả quan. Kim ngạch xuất khẩu sang một số thị trường khác như Chile, Hy Lạp, Ba Lan cũng tăng mạnh. Sáu tháng đầu năm 2014, ngành da giầy đã xuất khẩu 6,09 tỷ USD, trong đó giầy, dép đạt 4,84 tỷ USD, tăng 21,9%; túi xách đạt 1,25 tỷ USD, tăng 38,1% so với cùng kỳ năm 2013. Với tín hiệu tích cực này, ông Diệp Thành Kiệt, Phó Chủ tịch Hiệp hội Da giầy, túi xách Việt Nam (LEFASO), khẳng định: “Mục tiêu 12 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu năm 2014 hoàn toàn khả thi”.
Đối với hoạt động xuất khẩu, các chuyên gia và doanh nghiệp đều nhận định, ngành da giầy sẽ có không ít cơ hội phát triển, đặc biệt trong bối cảnh một loạt các hiệp định thương mại quan trọng đang trong giai đoạn hoàn tất, trong đó có Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EU), Việt Nam với Liên minh thuế quan Nga (Belarus - Kazakhstan). Sản phẩm da giầy Việt Nam có khả năng cạnh tranh về giá so với các quốc gia khác và đã hiện diện tại hầu hết thị trường lớn như Bắc Mỹ, EU, Nhật Bản… Thêm vào đó, mức tiêu thụ lớn với chất lượng ngày càng cao của ngành hàng này đủ để bảo đảm “đầu ra” cho các vật tư chiến lược.
Ngoài ra, để đón đầu cơ hội mở rộng thị trường khi Việt Nam chính thức ký kết các hiệp định thương mại tự do, các doanh nghiệp nước ngoài đang ráo riết triển khai các dự án đầu tư để sớm thụ hưởng những ưu đãi và tăng lợi nhuận. Xu hướng chuyển đơn hàng từ Trung Quốc, Bangladesh… vào Việt Nam là một trong những thuận lợi để phát triển hoạt động xuất khẩu của ngành. Các nhãn hàng nổi tiếng thế giới như Nike, Adidas đã có đơn đặt hàng sản xuất với các nhà máy tại Việt Nam. Theo Hiệp hội da giầy Việt Nam, hiện đang có ba quốc gia sản xuất chính cho nhãn hàng Nike là Việt Nam, Trung Quốc và Indonesia với tỷ trọng lớn nhất thuộc về Việt Nam là 42%.
Các doanh nghiệp da giầy Nhật Bản cũng đang xúc tiến kế hoạch phát triển sản xuất tại Việt Nam. Theo thống kê của Cơ quan xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO), tỷ lệ doanh nghiệp Nhật Bản làm ăn tại Trung Quốc có ý định mở rộng sản xuất giảm dần từ 73% năm 2010 xuống còn 57% vào năm 2013. Còn tại Việt Nam, cùng khoảng thời gian, tỷ lệ này tăng từ 27% lên 30%. Ông Atsusuke Kawada, Trưởng đại diện văn phòng JETRO Hà Nội, cho biết, chỉ tính trong năm 2013, tổng đầu tư của Nhật Bản vào ASEAN lớn hơn nhiều so với Trung Quốc, trong đó Việt Nam là một trong những điểm đến hấp dẫn. JETRO hiện đang hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư vào các nước đang phát triển, Việt Nam và Thái Lan được xem là những lựa chọn hàng đầu.
Thiếu bền vững
Mặc dù gặp nhiều thuận lợi trong hoạt động làm ăn với các đối tác nước ngoài cũng như xuất khẩu, song, phát triển ngành da giầy vẫn tồn tại những yếu tố chưa bền vững, trong đó có yếu tố tỷ lệ nội địa hóa thấp, các doanh nghiệp FDI vẫn chiếm đa số trong hoạt động xuất khẩu và doanh nghiệp trong nước chưa có chỗ đứng vững chắc tại thị trường nội địa.
Theo báo cáo của LEFASO, tỷ lệ nội địa hóa của ngành mới chỉ chiếm 40 - 45% (chủ yếu là đế giầy và chỉ khâu), trong khi nguyên liệu quan trọng nhất là da thuộc và da nhân tạo vẫn phải nhập khẩu. Đối với da thuộc thành phẩm, tỷ lệ nội địa hóa dưới 30%. Phần lớn nguyên liệu mũ giầy vẫn phải nhập khẩu… Việt Nam chỉ cung ứng được vải cho sản xuất loại giầy vải cấp thấp, các chủng loại vải cao cấp đều phải nhập khẩu. Theo Phó Chủ tịch LEFASO Diệp Thành Kiệt, ngành da giầy mới chỉ chủ động được 30% nguyên liệu da thuộc. Với mức độ phụ thuộc khoảng 70%, mỗi năm ngành da giầy nhập khẩu từ 1,1 - 1,5 tỷ USD da thuộc cho sản xuất hàng xuất khẩu.
Ngoài ra, hầu hết máy móc thiết bị sản xuất sử dụng trong ngành đều phải nhập khẩu… Ngành còn thiếu năng lực kỹ thuật và thiết kế để xây dựng thương hiệu và các dây chuyền sản phẩm. Bên cạnh đó, mặc dù chi phí lao động thấp nhưng đại bộ phận công nhân đều có tay nghề hạn chế, năng suất lao động thấp. Ông Diệp Thành Kiệt nhận định, nếu không thể gia tăng giá trị và sản lượng ở phân khúc thiết kế, nghiên cứu tạo sản phẩm mới; tạo năng lực sản xuất; phân phối sản phẩm thì 5 năm nữa ngành sẽ không thể tăng trưởng được.
Đối với xuất khẩu, mặc dù vẫn tăng trưởng mạnh, song, các doanh nghiệp nội địa tương đối yếu thế trong khi các doanh nghiệp FDI chiếm tới 77% tỷ trọng xuất khẩu. Khối doanh nghiệp trong nước chủ yếu là gia công. Thực tế này cũng do nguyên nhân xuất phát điểm của ngành da giầy Việt Nam là gia công xuất khẩu. Không thể phủ nhận những đóng góp của khối doanh nghiệp FDI trong việc thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu của ngành da giầy, giải quyết việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, sự áp đảo của các doanh nghiệp FDI trong xuất khẩu cho thấy khả năng cạnh tranh của khối doanh nghiệp trong nước rất thấp. Nếu không có giải pháp hiệu quả, ngành da giầy Việt Nam rất khó tránh khỏi tình trạng “công xưởng gia công”. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam đang đàm phán hàng loạt các hiệp định thương mại, khi các hiệp định này được ký kết sẽ đem lại những lợi ích rất lớn cho ngành, đồng thời tạo sự hấp dẫn với các doanh nghiệp FDI.
Tổng Thư ký LEFASO cho rằng, việc cân bằng tỷ trọng xuất khẩu giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nội cần chiến lược lâu dài. Các doanh nghiệp FDI là những tập đoàn lớn, có lợi thế lớn về vốn, kinh nghiệm, công nghệ, có thị trường đầu ra trên toàn thế giới. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, doanh nghiệp nội chưa đủ lực, khó có thể cạnh tranh mà chỉ có thể cùng nhau phát triển.
LEFASO khuyến nghị các doanh nghiệp trong nước cần chủ động hơn nữa trong việc tham gia sản xuất, đa dạng nguồn cung nguyên liệu nhằm tận dụng ưu đãi từ các hiệp định thương mại, đồng thời cần có chiến lược nghiên cứu, nắm bắt thị hiếu tiêu dùng để cung cấp các sản phẩm mà thị trường cần, nâng cao hơn nữa giá trị gia tăng cho sản phẩm xuất khẩu.
Một hạn chế nữa của các doanh nghiệp da giầy nội địa là không giành được lợi thế ngay trên sân nhà. Nhu cầu của thị trường nội địa đối với mặt hàng giầy dép mỗi năm khoảng trên 1,5 tỷ USD. Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong nước mới chỉ đáp ứng được khoảng 40%. Số liệu thống kê của Bộ Công Thương cho thấy, mỗi năm cả nước tiêu thụ từ 130 - 140 triệu đôi giầy dép, chiếm khoảng 30% doanh thu xuất khẩu của ngành. Nhưng thực tế hiện nay, thị trường này đang bị hàng nước ngoài chiếm lĩnh, trong đó sản phẩm của Trung Quốc là nhiều nhất.
Các chuyên gia dự đoán, ngành da giầy nội địa sẽ càng khó khăn hơn khi Việt Nam ký kết các hiệp định tự do mở cửa thị trường. Theo các thông tin mới nhất, để đón đầu cơ hội mở cửa của thị trường Việt Nam, các doanh nghiệp xuất khẩu da giầy Thái Lan đã có kế hoạch mở rộng thị trường Việt Nam để tận dụng các ưu đãi thuế quan trong Hiệp định thương mại tự do ASEAN. Phía đối tác Đài Loan cũng tích cực chuẩn bị để gia tăng lượng hàng vào thị trường Việt Nam trong thời gian tới.
Theo nhận định của các chuyên gia, cùng với các cơ hội về xuất khẩu, việc mở cửa thị trường theo các cam kết của các hiệp định thương mại tự do với mức thuế nhập khẩu về 0% cũng sẽ là một thách thức lớn của ngành da giầy nội địa. Cùng với sự tham gia ồ ạt của doanh nghiệp các nước nằm trong khối TPP và EU, các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh giầy dép nội địa sẽ phải chịu áp lực cạnh tranh rất lớn do thiếu vốn đầu tư, thiếu mặt bằng sản xuất và công nghệ lạc hậu.
Để có thể đứng vững trong nước và duy trì được lợi thế xuất khẩu, ngay từ bây giờ, các doanh nghiệp phải đầu tư về công nghệ để có thể sản xuất được các sản phẩm chất lượng cao, đa dạng về kiểu dáng, mẫu mã, đặc biệt là phải xây dựng được thương hiệu riêng cho mình mới có thể gia tăng được thị phần nội địa và phát triển bền vững.
Nguồn: Tạp chí tài chính